Nhận thức chung về công tác kiểm tra, giám sát của ngành Nội chính Đảng đối với việc thể chế hóa chủ trương, chính sách của Đảng trong lĩnh vực nội chính 

"Thể chế hóa chủ trương, chính sách của Đảng trong lĩnh vực nội chính" là khái niệm được hình thành từ thuật ngữ “thể chế” (institutions) có nghĩa là những quy định, luật lệ của một chế độ xã hội, buộc mọi người phải tuân theo(1) và thuật ngữ “thể chế hóa” (institutionalization) được hiểu là phương thức xây dựng pháp luật của Nhà nước và là cơ chế chính trị - pháp lý bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng

     1. "Lĩnh vực nội chính" hiện đã có sự thống nhất cao ở khía cạnh là khái niệm dùng để chỉ các hoạt động trọng yếu, liên quan hầu hết và trực tiếp đến mọi mặt của đời sống xã hội, gồm: Hoạt động chính trị, hoạt động nhà nước, an ninh, quốc phòng, tư pháp, thanh tra, kiểm toán, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm và các vi phạm pháp luật về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, PCTN và cải cách tư pháp; do các cơ quan thuộc khối nội chính đảm nhiệm - các cơ quan mà toàn bộ hoặc hầu hết nhiệm vụ, hoạt động của cơ quan đó thuộc lĩnh vực nội chính, gồm: Ủy ban Kiểm tra Đảng, Ban Nội chính Đảng, Quân đội, Công an, Viện Kiểm sát, Tòa án, Tư pháp, Thanh tra, Kiểm toán (so với trước đây, phạm vi các cơ quan nội chính hiện đã mở rộng gồm cả Kiểm toán và Ủy ban Kiểm tra Đảng). Bên cạnh đó, còn một số cơ quan, tổ chức hoạt động liên quan đến lĩnh vực nội chính hoặc có một số hoạt động thuộc lĩnh vực nội chính, như: Tổ chức Luật gia, Luật sư, cơ quan Hải quan, Kiểm lâm, Kiểm ngư, Quản lý thị trường,...

     “Ngành Nội chính Đảng” theo quan niệm truyền thống bao gồm: Ban Nội chính Trung ương và ban nội chính các tỉnh ủy, thành ủy trực thuộc Trung ương, có chức năng tham mưu, giúp việc cấp ủy, tổ chức đảng trong lãnh đạo, chỉ đạo công tác nội chính, PCTN và cải cách tư pháp. So với các ngành khác thuộc khối nội chính, hoạt động của ngành Nội chính Đảng có một số đặc điểm:
     Một là, ngành Nội chính Đảng tham mưu những quan điểm, chủ trương, đường lối để các cấp ủy, tổ chức đảng lãnh đạo, chỉ đạo công tác nội chính, PCTN và cải cách tư pháp.
     Hai là, ở mức độ trực tiếp, hoạt động của ngành Nội chính Đảng giúp cấp ủy, tổ chức đảng có thêm cơ sở khoa học, thực tiễn, chính trị và pháp lý để lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện một số mặt công tác thuộc lĩnh vực nội chính. Ở mức độ khái quát, hoạt động của ngành Nội chính Đảng nhằm hiện thực hóa quan điểm Đảng lãnh đạo chặt chẽ, trực tiếp, toàn diện công tác nội chính, PCTN và cải cách tư pháp.
 
    Ba là, hoạt động của ngành Nội chính Đảng được tiến hành với nhiều cách thức, gồm: Tham mưu một số quan điểm, chủ trương, chính sách lớn của Đảng về công tác xây dựng pháp luật, trọng tâm là những đề án liên quan đến lĩnh vực nội chính, PCTN và cải cách tư pháp; về bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, PCTN và cải cách tư pháp;... Tham gia ý kiến với một số chủ thể về các đề án thuộc lĩnh vực nội chính trước khi trình Bộ Chính trị, Ban Bí thư; tham gia về công tác tổ chức, cán bộ;... Chỉ đạo, hướng dẫn xử lý một số vụ việc, vụ án tham nhũng, tiêu cực nghiêm trọng, phức tạp, dư luận xã hội quan tâm được Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN giao;... Trực tiếp kiểm tra, giám sát việc chấp hành chủ trương, chính sách của Đảng về lĩnh vực nội chính, trong đó có kiểm tra, giám sát việc thể chế hóa chủ trương, chính sách của Đảng trong lĩnh vực nội chính,...
    2. "Thể chế hóa chủ trương, chính sách của Đảng trong lĩnh vực nội chính" là khái niệm được hình thành từ thuật ngữ “thể chế” (institutions) có nghĩa là những quy định, luật lệ của một chế độ xã hội, buộc mọi người phải tuân theo(1) và thuật ngữ “thể chế hóa” (institutionalization) được hiểu là phương thức xây dựng pháp luật của Nhà nước và là cơ chế chính trị - pháp lý bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, được thể hiện qua vai trò, ý nghĩa như sau:
     Một là, định hướng mục tiêu, tạo khung khổ pháp lý cho việc tổ chức vận hành và quản lý xã hội, qua đó, giúp Nhà nước xác lập các công cụ quản lý xã hội. Nói cách khác, quá trình thể chế hóa làm cho ý chí của Đảng thành ý chí chung của xã hội, ý chí của Nhà nước.
 
    Hai là, thống nhất giữa  tính khoa học, tầm chiến lược của chủ trương, chính sách của Đảng với tính quy phạm của pháp luật và sự bảo đảm thi hành bởi quyền lực nhà nước; phản ánh mối quan hệ mật thiết giữa chính trị và pháp luật.
 
    Ba là, tạo tiền đề để đưa nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Đảng vào cuộc sống qua việc chuyển hóa những vấn đề có tính quy luật, định hướng trong chủ trương, chính sách của Đảng thành các quy tắc xử sự mang tính bắt buộc của pháp luật để điều chỉnh hành vi, hoạt động cụ thể của cá nhân, tổ chức.
     Bốn là, cung cấp những tiêu chí khách quan đánh giá chất lượng, hiệu quả lãnh đạo của Đảng thông qua chất lượng, hiệu quả điều chỉnh của pháp luật đối với mọi mặt của đời sống xã hội; đồng thời, giúp phân biệt rõ sự lãnh đạo của Đảng với sự quản lý của Nhà nước(2).
     Như vậy, ở tầm khái quát, thể chế hóa chủ trương, chính sách của Đảng là phương thức quan trọng làm cho chủ trương, chính sách của Đảng trở thành những quy tắc xử sự mang tính bắt buộc và được thực hiện thống nhất trong cả nước, bảo đảm để Nhà nước quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật dưới sự lãnh đạo của Đảng. Với ý nghĩa này thì “thể chế hóa” còn có mối quan hệ mật thiết với “cụ thể hóa” và “hiện thức hóa” chủ trương, chính sách của Đảng, vì chúng đều là những phương thức đưa chủ trương, chính sách của Đảng vào thực tiễn cuộc sống.
     Trong các văn bản của Đảng, “thể chế hóa chủ trương, chính sách của Đảng” được ghi nhận lần đầu tại Báo cáo về công tác xây dựng Đảng của Ban Chấp hành Trung ương khóa IV trình tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V (tháng 3/1982), theo đó, “Pháp luật, xét cho cùng là thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng. Nhưng không được lẫn lộn giữa đường lối, chính sách và pháp luật”(3). Tại Đại hội lần thứ VI của Đảng (tháng 12/1986), “thế chế hóa” tiếp tục được chỉ rõ: “Dưới sự lãnh đạo của Đảng, chức năng của Nhà nước là thể chế hóa bằng pháp luật quyền hạn, lợi ích, nghĩa vụ của nhân dân lao động và quản lý kinh tế - xã hội theo pháp luật”; “Quản lý đất nước bằng pháp luật, chứ không chỉ bằng đạo lý. Pháp luật là thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng, thể hiện ý chí của nhân dân, phải được thực hiện thống nhất trong cả nước”(4). Trải qua 35 năm đổi mới, khái niệm, vai trò và ý nghĩa của thể chế hóa chủ trương, chính sách của Đảng nói chung, trong lĩnh vực nội chính nói riêng ngày càng được khẳng định và sáng tỏ, có nội hàm là phương thức xây dựng pháp luật của Nhà nước, do cơ quan có thẩm quyền xây dựng pháp luật thực hiện, thể hiện trong chương trình, kế hoạch xây dựng và hoàn thiện pháp luật; qua nội dung và hình thức các văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, PCTN và cải cách tư pháp, nhằm bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất, chặt chẽ và toàn diện của Đảng đối với lĩnh vực nội chính.
     So với các lĩnh vực khác, lĩnh vực nội chính đòi hỏi phải có sự thống nhất cao giữa chủ trương, chính sách của Đảng với pháp luật của Nhà nước. Nói cách khác, chủ trương, chính sách của Đảng trong lĩnh vực nội chính đòi hỏi phải được thể chế hóa kịp thời, đầy đủ và chính xác; bởi lẽ:
     Thứ nhất, đây là lĩnh vực có nhiều hoạt động đặc biệt quan trọng, liên quan đến công việc chính trị của quốc gia, đến sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, xây dựng và phát triển đất nước, liên quan đến các quyền cơ bản của con người, quyền công dân. Mỗi chủ trương, chính sách của Đảng trong lĩnh vực nội chính đều có tác động sâu rộng đến hầu hết các lĩnh vực khác của đời sống xã hội, đến công tác xây dựng và thi hành pháp luật.
 
    Thứ hai, hoạt động của các cơ quan nội chính được đặt dưới sự lãnh đạo chặt chẽ, thống nhất và toàn diện của Đảng nói chung, sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với lực lượng vũ trang nói riêng. Điều này cũng có nghĩa đây là lĩnh vực tập trung nhiều quyền lực hơn nên cũng được đòi hỏi cao hơn về tính kỷ luật, kỷ cương; tính gương mẫu trong chấp hành chủ trương, chính sách của Đảng, trong đó có kỷ luật, kỷ cương, gương mẫu thể chế hóa chủ trương, chính sách của Đảng.
     Thứ ba, nội chính là lĩnh vực thường bị các thế lực thù địch, phần tử xấu lợi dụng chống phá, gây mất ổn định chính trị, chia rẽ nội bộ, trong đó có việc lợi dụng hợp tác quốc tế về xây dựng pháp luật và cải cách tư pháp để gây sức ép, tác động, chi phối, hướng lái, thay đổi bản chất hệ thống pháp luật Việt Nam theo hướng tiệm cận hơn với giá trị “dân chủ, nhân quyền” kiểu phương Tây nhằm chuyển hóa chính trị ở nước ta; do vậy, cần phải có hệ thống pháp luật đủ mạnh để chống trả lại những âm mưu thâm độc này.
     Quá trình thể chế hóa chủ trương, chính sách của Đảng nói chung, trong lĩnh vực nội chính nói riêng thường chịu sự tác động của nhiều yếu tố:
     Một là, yếu tố chính trị. Đây là yếu tố nền tảng, thể hiện sự ổn định, bền vững của thể chế chính trị; có ý nghĩa tạo môi trường chính trị thuận lợi để các chủ thể thực hiện đúng vai trò, trách nhiệm “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và Nhân dân làm chủ”; tạo niềm tin trong dân chúng đối với Đảng và Nhà nước, từ đó hình thành ý thức tôn trọng, chấp hành chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước(5); đồng thời, tạo điều kiện để Đảng đề ra các chủ trương, chính sách phù hợp với yêu cầu khách quan, đáp ứng đòi hỏi từ thực tiễn lãnh đạo đất nước và để quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật của Nhà nước luôn thống nhất với chủ trương, định hướng của Đảng - điều mà ở bất cứ quốc gia nào, vào bất cứ giai đoạn lịch nào có sự bất ổn về chính trị cũng khó có thể thực hiện được. Ngoài ra, yếu tố chính trị còn được thể hiện qua tính dân chủ trong công tác xây dựng pháp luật. Khi xã hội có nền dân chủ rộng rãi, người dân có điều kiện tham gia vào quá trình xây dựng pháp luật sẽ giúp làm tăng tính đúng đắn, phù hợp với thực tiễn đời sống xã hội của việc thể chế hóa.
     Hai là, yếu tố pháp luật. Với ý nghĩa là một phương thức xây dựng pháp luật, thể chế hóa chủ trương, chính sách của Đảng chịu ảnh hưởng rất lớn bởi yếu tố pháp luật mà trước hết và trực tiếp là pháp luật về ban hành văn bản quy phạm pháp luật, nhất là các quy định về chương trình, kế hoạch xây dựng pháp luật, nội dung và hình thức của văn bản quy phạm pháp luật, quy trình thẩm định, thẩm tra, tham gia ý kiến vào các dự án luật,... Các quy định này nếu bảo đảm tính khoa học, logic, chặt chẽ thì sẽ góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thể chế hóa và ngược lại. Ngoài ra, thể chế hóa chủ trương, chính sách của Đảng còn chịu ảnh hưởng của ý thức pháp luật, văn hóa và truyền thống pháp lý của mỗi quốc gia.
     Ba là, yếu tố con người. Nguồn nhân lực trong thể chế hóa chủ trương, chính sách của Đảng rất đa dạng, bao gồm cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức làm việc trong bộ máy các cơ quan Đảng, cơ quan nhà nước và các chủ thể có liên quan. Để bảo đảm chất lượng của việc thể chế hóa chủ trương, chính sách của Đảng trong lĩnh vực nội chính, các chủ thể trên ngoài đáp ứng các yêu cầu về số lượng, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ còn phải đáp ứng các yêu cầu về phẩm chất chính trị trong tham mưu, đề xuất các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
     Bốn là, yếu tố cơ sở vật chất (bao gồm cả yếu tố tài chính). Cơ sở vật chất có tác động không nhỏ đến việc thể chế hóa chủ trương, chính sách của Đảng, vì nếu kinh phí, cơ sở vật chất hạn chế, không phù hợp thì việc thể chế hóa khó có thể bảo đảm tiến độ, chất lượng, các cơ quan, tổ chức và người dân khó có điều kiện thực hiện được đầy đủ quyền tham gia xây dựng pháp luật theo quy định.
     Năm là, yếu tố hội nhập. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế mạnh mẽ và sâu rộng, việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia theo hướng ngày càng tương thích hơn với hệ thống pháp luật khu vực và quốc tế là tất yếu khách quan. Lĩnh vực nội chính mặc dù chủ yếu giải quyết những vấn đề mang tính chất chính trị nội bộ nhưng vẫn có một số mặt công tác chịu sự tác động của yếu tố hội nhập, như: Bảo đảm an ninh phi truyền thống, nhất là an ninh mạng, an ninh văn hóa; tương trợ tư pháp hình sự, nhất là dẫn độ, thu hồi tài sản do phạm tội mà có; cải cách tư pháp, nhất là cải cách thủ tục giải quyết các tranh chấp, mâu thuẫn về kinh doanh, thương mại có yếu tố nước ngoài,…
     3. Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng là một bộ phận cấu thành công tác lãnh đạo của Đảng.
     Đảng lãnh đạo công tác xây dựng pháp luật, công tác nội chính, PCTN và cải cách tư pháp nên kiểm tra, giám sát việc thể chế hóa chủ trương, chính sách của Đảng trong lĩnh vực nội chính là yêu cầu khách quan, thể hiện rõ quan điểm “Lãnh đạo mà không kiểm tra, giám sát thì coi như không lãnh đạo”.
     Theo các quy định hiện hành của Đảng, kiểm tra của Đảng là việc các tổ chức đảng xem xét, đánh giá, kết luận về ưu điểm, khuyết điểm hoặc vi phạm của cấp ủy, tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên trong việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quyết định, quy chế, kết luận của Đảng và pháp luật của Nhà nước; giám sát của Đảng là việc các tổ chức đảng quan sát, theo dõi, nắm bắt, xem xét, đánh giá, kết luận hoạt động nhằm kịp thời nhắc nhở để cấp ủy, tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên được giám sát chấp hành nghiêm Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quyết định, quy chế, kết luận của Đảng, pháp luật của Nhà nước và khắc phục, sửa chữa hạn chế, khuyết điểm, vi phạm (nếu có)(6).
     Như vậy, có thể khái niệm công tác kiểm tra, giám sát của ngành Nội chính Đảng đối với việc thể chế hóa chủ trương, chính sách của Đảng trong lĩnh vực nội chính là việc Ban Nội chính Trung ương, ban nội chính các tỉnh ủy, thành ủy xem xét, đánh giá, kết luận về ưu điểm, hạn chế của cấp ủy, tổ chức đảng trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện việc thể chế hóa chủ trương, chính sách của Đảng trong lĩnh vực nội chính, nhằm đánh giá đúng thực chất công tác lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng và hoàn thiện pháp luật; qua đó, kịp thời tham mưu với cấp ủy, tổ chức đảng các cấp giải pháp phát huy ưu điểm, chấn chỉnh hạn chế, khắc phục khó khăn, vướng mắc (nếu có) trong quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực nội chính. Công tác này có những đóng góp quan trọng vào quá trình lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực nội chính như sau:
     Thứ nhất, bảo đảm tính đúng đắn, phù hợp trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối với lĩnh vực nội chính. Ở tầm khái quát, qua kiểm tra, giám sát việc thể chế hóa sẽ phát hiện được những chủ trương, chính sách nào của Đảng không còn phù hợp với thực tế công tác quản lý của Nhà nước, với nhu cầu phát triển của xã hội; từ đó, kịp thời có giải pháp hoạch định chủ trương, đường lối lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng cho phù hợp với tình hình mới. Ở mức độ cụ thể, công tác kiểm tra, giám sát việc thể chế hóa chủ trương, chính sách của Đảng trong lĩnh vực nội chính góp phần đánh giá đúng thực chất hoạt động của mỗi cấp ủy, tổ chức đảng trong lãnh đạo, chỉ đạo công tác xây dựng pháp luật về bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm và các vi phạm pháp luật về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, PCTN và cải cách tư pháp; qua đó, kịp thời tham mưu, đề xuất đối với cấp ủy, tổ chức Đảng, cơ quan, tổ chức, đơn vị phát huy ưu điểm, uốn nắn hạn chế, khuyết điểm (nếu có).
     Thứ hai, góp phần tăng cường pháp chế XHCN, bảo đảm kỷ cương xã hội. Qua kiểm tra, giám sát sẽ phát hiện được những chủ trương, chính sách nào của Đảng về công tác nội chính, PCTN và cải cách tư pháp chưa được thể chế hóa hoặc đã thể chế hóa nhưng chưa đầy đủ, chưa đúng (thậm chí sai trái) trong các văn bản quy phạm pháp luật; từ đó, có những đánh giá, kết luận để kịp thời chấn chỉnh công tác xây dựng và hoàn thiện pháp luật nói chung, xử lý đối với văn bản chưa phù hợp nói riêng, góp phần giữ vững trật tự, kỷ cương trong xây dựng và thi hành pháp luật.
     Thứ ba, góp phần ngăn chặn, đẩy lùi âm mưu và hoạt động chống phá Việt Nam của các thế lực thù địch. Như trên đã phân tích, nội chính là lĩnh vực luôn bị các thế lực thù địch, các phần tử xấu lợi dụng, tác động, chi phối, hướng lái, chống phá Đảng và Nhà nước, gây mất ổn định chính trị, chia rẽ nội bộ. Qua kiểm tra, giám sát đối với việc thể chế hóa có cơ sở để xác định việc xây dựng, ban hành, thực thi pháp luật về bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm và các vi phạm pháp luật về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, PCTN và cải cách tư pháp có bị tác động, hướng lái chính sách theo các giá trị “tự do, dân chủ”; có bị chi phối bởi những nhóm lợi ích không trong sáng không; từ đó, kịp thời đề ra các giải pháp, biện pháp loại trừ, đấu tranh ngăn chặn.
     Thứ tư, góp phần nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của Đảng nói chung. Là cơ quan tham mưu chiến lược của Đảng trong lĩnh vực nội chính, hơn bất cứ chủ thể nào, ngành Nội chính Đảng hiểu rõ nhất về mọi khía cạnh của chủ trương, chính sách của Đảng trong lĩnh vực nội chính do mình nghiên cứu, tham mưu, đề xuất hoặc thẩm định; không chỉ từ cơ sở hình thành chủ trương, chính sách mà còn là những nội dung nào của chủ trương, chính sách cần phải được thể chế hóa, thể chế hóa đến mức độ nào,... Do vậy, công tác kiểm tra, giám sát việc thể chế hóa chủ trương, chính sách của Đảng trong lĩnh vực nội chính do ngành Nội chính Đảng đảm nhiệm vừa bảo đảm tính phù hợp về mặt tổ chức vừa mang lại hiệu quả chung cho công tác kiểm tra, giám sát của Đảng.
     4. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII cùa Đảng nhấn mạnh: “Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của các cơ quan tham mưu, giúp việc cấp ủy trong việc thể chế hóa và thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng”(7). Cả từ phương diện lý luận và thực tiễn đều cho thấy để ngành Nội chính Đảng có cơ sở xem xét, đánh giá, kết luận về ưu điểm, hạn chế của việc thể chế hóa chủ trương, chính sách của Đảng trong lĩnh vực nội chính, quá trình kiểm tra, giám sát của ngành Nội chính Đảng đối với công tác này ngoài việc đánh giá về công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện thể chế hóa còn cần dựa vào một số tiêu chí (thước đo) để đánh giá hiệu quả của việc thể chế hóa, như sau:
     Thứ nhất, tính kịp thời của việc thể chế hóa. Tiêu chí này dùng để đo khoảng thời gian giữa việc Đảng đề ra (ban hành) chủ trương, chính sách trong lĩnh vực nội chính với việc Nhà nước xây dựng và hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này. Khoảng cách thời gian càng ngắn thì có nghĩa chủ trương, chính sách của Đảng trong lĩnh vực nội chính càng có điều kiện sớm được quy phạm hóa và đưa vào thực hiện trong đời sống xã hội. Tính kịp thời của việc thể chế hóa được thể hiện qua chủ trương, chính sách của Đảng trong lĩnh vực nội chính ngay sau khi được ban hành sẽ được tổ chức nghiên cứu, học tập, quán triệt tới các cấp chính quyền từ Trung ương đến cơ sở, làm căn cứ cho việc xây dựng chương trình hành động triển khai thực hiện, trong đó có nội dung về xây dựng và hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực nội chính.
     Thứ hai, tính đầy đủ trong việc thể chế hóa. Tiêu chí này dùng để đo mức độ toàn diện của việc thể chế hóa chủ trương, chính sách của Đảng trong lĩnh vực nội chính; giúp trả lời câu hỏi việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực nội chính dựa vào những chủ trương, chính sách nào của Đảng; hay nói cách khác, cơ sở chính trị của việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực nội chính là gì. Tính đầy đủ của việc thể chế hóa càng cao thì càng có điều kiện để mọi chủ trương, chính sách của Đảng trong lĩnh vực nội chính được đi vào cuộc sống thông qua hệ thống pháp luật về nội chính. Biểu hiện của việc đáp ứng tiêu chí này là quá trình xây dựng và thực hiện pháp luật trong lĩnh vực nội chính phải căn cứ vào từng nguyên tắc, quan điểm, đường lối, chủ trương, định hướng, phương châm, chính sách, quy định Đảng về từng mặt công tác cụ thể của lĩnh vực nội chính. 
     Thứ ba, tính chính xác trong việc thể chế hóa. Đây là tiêu chí cốt lõi, thể hiện sự thống nhất về ý chí giữa Đảng, Nhà nước và xã hội, phản ánh tính “thực chất” của việc thể chế hóa chủ trương, chính sách của Đảng thành pháp luật của Nhà nước nói chung, trong lĩnh vực nội chính nói riêng, bởi vì chỉ có sự thống nhất giữa ý chí của Đảng với ý chí chung của xã hội mà Nhà nước là đại diện thì chủ trương, chính sách của Đảng mới có giá trị thực tiễn đối với toàn xã hội và là cơ sở để Đảng thực hiện được vai trò lãnh đạo của mình. Tính chính xác của việc thể chế hóa được biểu hiện không chỉ qua sự phù hợp giữa chủ trương, chính sách của Đảng với mục tiêu, quan điểm của Nhà nước trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực nội chính mà còn là sự thống nhất, đúng tinh thần của từng chủ trương, chính sách Đảng với các quy định pháp luật trong lĩnh vực nội chính.
     Thứ tư, tính chịu sự kiểm tra, giám sát của Đảng. Đây là tiêu chí thể hiện rõ nhất vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công tác xây dựng pháp luật nói chung, xây dựng pháp luật trong lĩnh vực nội chính nói riêng. Do kiểm tra, giám sát là những chức năng lãnh đạo của Đảng nên việc thể chế hóa chủ trương, chính sách của Đảng trong lĩnh vực nội chính phải luôn đặt dưới sự kiểm tra, giám sát của Đảng ở tất cả các khâu của quá trình thể chế hóa và với mọi chủ thể tiến hành việc thể chế hóa. Tiêu chí này được thể hiện số lần (lượt) kiểm tra, giám sát của Đảng về việc thể chế hóa; việc áp dụng các tiêu chí đánh giá việc thể chế hóa trong quá trình kiểm tra, giám sát của Đảng; số vụ vi phạm được phát hiện, xử lý trong quá trình kiểm tra, giám sát việc thể chế hóa chủ trương, chính sách của Đảng về lĩnh vực nội chính; những kiến nghị về việc khắc phục tình trạng chủ trương, chính sách của Đảng không được thể chế hóa kịp thời, đầy đủ, chính xác,...
 
(1) Từ điển Tiếng Việt, Hoàng Phê chủ biên, Trung tâm Từ điển học, Viện Ngôn ngữ học, Nxb Đà Nẵng, 1995.
(2) PGS. TS. Lê Văn Hòe, ThS. Lê Thị Diệu Hoa (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh): “Một số vấn đề lý luận, thực tiễn thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng thành pháp luật”, Tạp chí Lý luận Chính trị (điện tử), ngày 25/4/2018.
(3) Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam: Hệ thống Tư liệu - Văn kiện Đảng, đăng ngày 24/9/2015.
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-thu-v/bao-cao-vecong-tac-xay-dung-dang-cua-ban-chap-hanh-trung-uong-khoa-iv-trinh-tai-dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-1504
(4) Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa V trình tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam: Hệ thống Tư liệu - Văn kiện Đảng, đăng ngày 24/02/2017.
(5) TS. Dương Thị Tươi, Viện Nhà nước và Pháp luật, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: “Bảo đảm chất lượng xây dựng pháp luật ở Việt Nam hiện nay”, đăng tại https://www.moha.gov.vn/danh-muc/bao-damchat-luong-xay-dung-phap-luat-o-viet-nam-hien-nay-41242.html, ngày 18/11/2019.
(6) Quy định số 22-QĐ/TW, ngày 28/7/2021 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng.
(7) Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. https://daihoi13.dangcongsan.vn/tu-lieu/van-ban-chi-dao-huong-dan.

PGS. TS. Vũ Thu Hạnh, noichinh.vn