Chống diễn biến hòa bình: BÁC BỎ LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC “QUYỀN CHÍNH TRỊ CỦA PHỤ NỮ Ở VIỆT NAM KHÔNG ĐƯỢC BẢO ĐẢM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY”
Quyền của phụ nữ là một vấn đề mang tính thời đại. Sự tham gia của phụ nữ trong bộ máy lãnh đạo, quản lý được coi là thước đo cơ bản về vai trò của phụ nữ trong nền chính trị hiện đại. Nâng cao vị thế của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị ở nước ta hiện nay có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bảo đảm mục tiêu bình đẳng giới. Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021 - 2030 cũng hướng tới mục tiêu bảo đảm quyền cho phụ nữ, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập của đất nước hiện nay. Tuy nhiên trong thời gian gần đây, các lực lượng thù địch phản động cho rằng quyền chính trị của phụ nữ Việt Nam không được bảo đảm. Đây là một luận điểm hoàn toàn sai lầm, thiếu khách quan và không có căn cứ. Trước hết, sự ban hành hệ thống pháp luật Việt Nam nhằm nâng cao vai trò, vị thế của phụ nữ trong xã hội và thực hiện bình đẳng giới Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên trên thế giới ký kết tham gia công ước CEDAW (Công ước của Liên hợp quốc về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ) vào ngày 29/7/1980 và được phê chuẩn vào ngày 27/11/1981. Cho nên, ở Việt Nam sẽ không có chuyện “quyền chính trị của phụ nữ tham gia chính trường có sự phân biệt”. Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc gặp mặt các lãnh đạo và nữ đại biểu Quốc hội Ảnh: baochinhphu.vn Việt Nam là một trong số các quốc gia có khung pháp luật và chính sách khá toàn diện, đầy đủ để thúc đẩy bình đẳng giới. Hiến pháp năm 1946 đã nêu hai quyền cơ bản và khái quát của công dân Việt Nam là “tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện: chính trị, kinh tế, văn hóa”; “tất cả công dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật”. Hiến pháp năm 2013 nêu rõ, công dân nam nữ bình đẳng về mọi mặt; Nhà nước, xã hội và gia đình tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện, phát huy vai trò của mình trong xã hội. Đồng thời với sự ban hành của hệ thống các bộ luật như luật Dân sự, Bộ luật Lao động, Luật Hôn nhân và Gia đình, Pháp lệnh Dân số, Luật Phòng chống bạo lực gia đình, Luật Bình đẳng giới…. Điều 11, Chương II, Luật Bình đẳng giới quy định bình đẳng giới trong lĩnh vực chính trị: Nam, nữ bình đẳng trong tham gia quản lý nhà nước, tham gia hoạt động xã hội, xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước của cộng đồng hoặc quy định, quy chế của cơ quan, tổ chức; Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp cũng quy định phụ nữ có quyền bầu cử, ứng cử cũng như các cơ chế để bảo đảm phụ nữ được thực hiện những quyền đó… Thứ hai, một số thành tựu trong việc thực hiện quyền chính trị của phụ nữ ở Việt Nam thời gian qua Ở Việt Nam, để thúc đẩy phụ nữ tham chính, Đảng và Nhà nước đã thực hiện nhiều giải pháp quan trọng như khuyến khích phụ nữ tham chính, có các chính sách hỗ trợ, đưa thêm phụ nữ vào danh sách ứng cử, khuyến khích đề bạt thêm phụ nữ vào Đảng. Các nghị quyết, chỉ thị của Đảng đề cao, phát huy vai trò của phụ nữ như: Nghị quyết 04-NQ/TW ngày 12/7/1993 của Bộ Chính trị về đổi mới và tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới; Chỉ thị 37-CT/TW ngày 16/5/1994 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về một số vấn đề công tác cán bộ nữ trong tình hình mới; Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 của Ban Chấp hành Trung ương về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ… Quảng Bình là một trong các địa phươgn rất quan tâm đến việc chăm lo phát triển cán bộ nữ. Trong ảnh là các đồng chí lãnh đạo tỉnh Quảng Bình chụp ảnh lưu niệm cùng các đồng chí cán bộ nữ tiêu biểu của tỉnh. Ảnh:Baoquangbinh.vn Kết quả bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XI (2002-2007), phụ nữ chiếm 27,31% trong tổng số đại biểu, khóa XII (2007-2011): 25,76%, khóa XIII (2011-2016): 24.40%. Đặc biệt, trong nhiệm kỳ XIII, cán bộ nữ tham gia cấp ủy cả 3 cấp đều tăng về số lượng và chất lượng. Cụ thể, ở cấp cơ sở, tỷ lệ nữ tham gia cấp ủy đạt 21% (tăng 2%) so với nhiệm kỳ trước. Đối với cấp trên cơ sở đạt 17%, cũng tăng 2%. Đối với các Đảng bộ trực thuộc Trung ương, tỷ lệ nữ đạt 16% và tăng 3% so với nhiệm kỳ trước. Điều đáng vui mừng hơn nữa là có hơn 4.200 cán bộ nữ được lựa chọn, giới thiệu và bầu giữ chức vụ cán bộ chủ chốt trong Đảng và chính quyền ở cả 3 cấp… Đây là tỷ lệ tương đối cao qua các kỳ bầu cử Quốc hội và đã đưa Việt Nam thuộc nhóm các nước có tỷ lệ nữ đại biểu trong cơ quan lập pháp cao nhất châu Á và cũng như trên thế giới (trên 25%). [3] Tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội nước ta cao hơn hẳn so với Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản và nhiều nước trong khu vực. Theo Liên minh các nghị viện thế giới, Việt Nam đứng thứ 37 trong tổng số 188 nước trên thế giới về tỷ lệ phụ nữ trong cơ quan lập pháp (Số liệu tính đến ngày 31-1-2011 trên cơ sở báo cáo của cơ quan lập pháp các nước). Số liệu của trang tin Nhóm Nữ nghị sỹ Việt Nam (thuộc Ủy ban Các vấn đề xã hội của Quốc hội) cho thấy, tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội ở nước ta liên tục tăng lên trong thời gian qua và duy trì ở mức cao. Từ năm 1999 đến nay, Việt Nam luôn có nữ Phó chủ tịch nước. Tỷ lệ phụ nữ là bộ trưởng, thứ trưởng, vụ trưởng cũng tăng lên. Tại các cấp địa phương, tỷ lệ phụ nữ tham gia vào Hội đồng nhân dân, Uỷ ban Nhân dân cũng tăng lên và nhiều nơi có nữ chủ tịch.Chính phủ cũng có các cơ quan chuyên trách chăm lo, bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho phụ nữ như Vụ Bình đẳng giới (Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội), Vụ Gia đình (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch), Vụ Sức khoẻ bà mẹ trẻ em (Bộ Y tế),... Đặc biệt là Ủy ban quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam được thành lập từ năm 1985 với tổ chức từ trung ương đến địa phương, có chức năng, nhiệm vụ giúp Thủ tướng Chính phủ giải quyết các vấn đề liên ngành liên quan đến sự tiến bộ của phụ nữ. Phụ nữ Việt Nam tham gia vào các cơ quan nhà nước: lập pháp, hành pháp, tư pháp, và còn tham gia vào các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp... Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam là một tổ chức chính trị rộng lớn dành cho phụ nữ hoạt động vì sự bình đẳng, phát triển của phụ nữ, chăm lo bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp và chính đáng của phụ nữ. Tổ chức này hoạt động rộng khắp trên cả nước từ trung ương đến địa phương và cấp cơ sở với các chi hội phụ nữ. Trong các cấp ủy Đảng, sự tham gia của phụ nữ Việt Nam vào hệ thống chính trị cũng có sự thay đổi. Năm 2010, tỷ lệ đảng viên nữ đạt 32,8%, tăng đáng kể so với năm 2005 khi số nữ đảng viên chỉ chiếm 20,9%. Mặc dù vậy tỷ lệ đảng viên nữ vẫn thấp hơn nhiều so với đảng viên nam và sẽ dẫn tới tác động là sẽ có ít phụ nữ được đề bạt, tiến cử vào những chức vụ lãnh đạo quan trọng. Cùng với số lượng nữ đảng viên, số lượng phụ nữ tham gia các cấp thể hiện rõ nét thực trạng sự tham gia của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị. Một thực trạng là ở cấp ủy càng cao, tỷ lệ phụ nữ giữ trọng trách càng thấp. Tỷ lệ nữ đại diện trong Ban Chấp hành Trung ương và tỉnh không tăng trong vòng 3 nhiệm kỳ gần đây, ở cấp huyện và xã có tăng nhưng rất ít. Tỷ lệ nữ giữ các vị trí bí thư, phó bí thư, ủy viên thường vụ chỉ chiếm khoảng 10% ở mọi cấp. Bên cạnh đó, dù tham gia vào cấp ủy, nhưng phần lớn các nữ ủy viên chỉ phụ trách các công việc hành chính, ít liên quan đến nhiệm vụ chiến lược. Chất lượng phụ nữ tham gia trong lĩnh vực chính trị cũng được tăng lên về trình độ và năng lực quản lý. Rất nhiều phụ nữ đã trở thành các nhà lãnh đạo, quản lý, nắm giữ những vị trí chủ chốt tại các cơ quan mà mình tham gia. Với những tính cách ưu việt của người phụ nữ Việt Nam, rất nhiều người trong số họ đã trở thành những nhà lãnh đạo xuất sắc. Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 - 2020 xác định mục tiêu phấn đấu đến năm 2020, về cơ bản bảo đảm sự bình đẳng thực chất giữa nam và nữ trên mọi lĩnh vực với 7 mực tiêu cụ thể. Trong đó, mục tiêu 1 là tăng cường sự tham gia của phụ nữ vào các vị trí quản lý, lãnh đạo nhằm giảm khoảng cách giới trong lĩnh vực chính trị. Phấn đấu cán bộ phụ nữ tham gia cấp ủy Đảng các cấp đạt từ 25% trở lên; nữ đại biểu Quốc hội và HĐND các cấp từ 35 - 40%. Các cơ quan, đơn vị có tỷ lệ nữ từ 30% trở lên, nhất thiết có cán bộ lãnh đạo chủ chốt là nữ. Cơ quan lãnh đạo cấp cao của Đảng, Quốc hội, Nhà nước, Chính phủ có tỷ lệ nữ phù hợp với mục tiêu bình đẳng giới. Thực tiễn trên chứng tỏ quyền chính trị của phụ nữ ở Việt Nam được bảo đảm tốt, tỷ lệ nữ tham gia các cấp ủy, chính quyền không chỉ cao hơn của khu vực châu Á, mà còn cao hơn toàn cầu. Thế mà các đối tượng thù địch vẫn cho rằng, Việt Nam vi phạm quyền chính trị của phụ nữ. Đó là thái độ thiếu khách quan nhằm mục đích xấu. Tất nhiên, chúng ta còn tiếp tục phấn đấu để sớm nâng cao hơn nữa tỷ lệ phụ nữ tham gia cấp ủy, chính quyền các cấp, nhằm rút ngắn khoảng cách và tiến tới nam nữ bình quyền trên mọi lĩnh vực. Trương Thị Hoài, Trường Chính trị Quảng Bình Tài liệu tham khảo 1. Nguyễn Văn Động (2006), Các quyền hiến định về chính trị của công dân Việt Nam, Nxb. Tư pháp, Hà Nội. 2. Đỗ Kim Tiên (2018), “Chính sách, pháp luật Việt Nam về sự tham gia quản lý nhà nước và xã hội của công dân”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 19 (371). 3. https://www.vietnamplus.vn/can-bo-nu-tham-gia-cap-uy-o-3-cap-tang-ca-ve-so-luong-lan-chat-luong-post691820.vnp
Các tin đã đăng
|